Tất cả chuyên mục
Long An|
30°C
/ 27°C - 33°C
Chủ Nhật, 29/12/2024 07:08 (GMT +7)
Hoàng Cầm – hồn thơ độc đáo
Thứ 6, 24/02/2017 | 12:13:00 [GMT +7] A A
Hoàng Cầm là một trong những gương mặt lớn của nền thi ca Việt Nam thế kỷ XX, được mệnh danh là nhà thơ của vùng đất Kinh Bắc.
Có thể nói, vùng quê hương văn hiến trữ tình ấy đã nuôi dưỡng hồn thơ Hoàng Cầm chứa chan tình mẹ, tình yêu đôi lứa và tình thương con người. Để từ đó dệt nên những vần thơ trữ tình, mượt mà, đầy sức quyến rũ từ nội tâm sâu thẳm.
Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh ngày 22/2/1922, tại xã Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, quê gốc ở xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Bùi Tằng Việt bước vào thi đàn với một bút danh thật đẹp và cũng thật độc đáo – Hoàng Cầm xuất phát từ tên của một vị thuốc quý.
Những năm kháng chiến, Hoàng Cầm gia nhập quân đội, chuyên hoạt động trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Ông từng giữ chức Trưởng đoàn văn công Tổng cục Chính trị. Cuối năm 1955, ông về công tác ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm công tác xuất bản. Tháng 4/1957, ông là một trong số những hội viên tham gia sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam.
Nhà thơ Hoàng Cầm bên bờ sông Đuống (ảnh chụp năm 2000).
Hoàng Cầm được biết đến trong nhiều lĩnh vực, nhưng nổi tiếng nhất là thơ ca với những tác phẩm chính gồm: “Trương Chi” (xuất bản năm 1993), “Bên kia sông Đuống” (thơ, 1948), “Kinh Bắc” (thơ, 1959), “Men đá vàng” (truyện thơ, 1973), “Mưa Thuận Thành” (thơ, 1959), “Lá Diêu Bông” (thơ, 1993), “Đến từ hư không” (thơ, 2000)…
Ngay từ những năm 15 tuổi, 18 tuổi ông đã có những bài thơ “Hận ngày xanh”, “Bông sen trắng” làm ngạc nhiên giới văn bút nước nhà; 20 tuổi, ông có “Hận Nam Quan” – vở thơ kịch lịch sử và đến năm 26 tuổi, bài thơ “Bên kia sông Đuống” đã đưa chàng trai Hoàng Cầm lên hàng thi sĩ tiêu biểu nhất trong kháng chiến chống Pháp. Bài thơ đánh dấu sự bừng thức của Hoàng Cầm về quê hương. Khi nghe tin quê hương đang từng giờ từng phút bị tàn phá, dày xéo trong tay giặc, yêu thương và căm giận cuồn cuộn trào dâng, tất cả những ký ức đó chợt sống dậy mãnh liệt trong ông, giúp ông sau một đêm đã làm nên một “Bên kia sông Đuống” chấn động tâm can mọi người Việt Nam yêu nước.
“Bên kia sông Đuống” đã làm Hoàng Cầm hiểu ra một điều quan trọng: quê hương Kinh Bắc chính là điều kỳ diệu nhất tạo hóa ban tặng ông, là “thiên mệnh” thơ của đời ông. Văn hóa Kinh Bắc như một cánh diều bay trên bầu trời thổi lên tiếng sáo nhớ nhung mà thi sĩ là người cầm dây. Thơ ông rất đỗi mơ mộng, đầy chất trí tuệ và thấm đẫm văn hóa phương Đông.
Từ “Bên kia sông Đuống”, dòng thơ về quê hương của Hoàng Cầm bắt đầu tuôn chảy với “Tiếng hát quan họ”, “Trương Chi”, “Men đá vàng”, “Mưa Thuận Thành”, “Lá diêu bông” và đặc biệt bài thơ “Về Kinh Bắc” là sự thăng hoa tuyệt vời, là tập thơ cột sống của đời Hoàng Cầm. Đây là một tập thơ mà tinh túy của văn hoá Quan họ – Kinh Bắc đã được chưng cất, kết đọng lại. Ông chia tập thơ thành các “nhịp” với những đêm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ như nén lại để rồi làm thăng hoa thơ Việt trong một không gian, thời gian thực ảo biến hoá khôn lường. Đọc thơ ông, ta gặp một con người Việt nguyên khôi qua hơi thở của lục bát, ngũ ngôn và nhịp tự do tài tình lướt qua khuôn phép. Chính vì thế mà thơ ông không cũ trong cổ điển, và cũng không quá xa lạ trong hiện đại. Nhiều câu thơ của ông đầy tài hoa, quyến rũ, khiến người đã “phải lòng” rồi thì không thể nào dứt ra được nữa.
Còn với “Lá diêu bông”, Hoàng Cầm đã sáng tác ra một thứ lá không có trên đời, nhưng ngày nay nó đã trở thành biểu tượng của tình yêu. Bài thơ là triết lý về hành trình, nỗi khát khao tìm kiếm hạnh phúc của đời người cho dù hạnh phúc đó chỉ là ảo. Luôn mang trong mình cái tình trẻ mãi không già, “Lá diêu bông” khiến Hoàng Cầm để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lòng bạn đọc: “Từ thuở ấy/ Em cầm chiếc lá/ đi đầu non cuối bể/ Gió quê vi vút gọi/ Diêu bông hời… ới diêu bông…!”.
Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha đánh giá: “Thơ Hoàng Cầm rất nhiều bài hay. Nhưng bài tôi tâm đắc nhất là bài “Lá diêu bông”. Vì ở đấy nó có phẩm chất mà tất cả các nhà thơ của nhân loại đều phải có. Vì riêng chuyện ông sáng tạo ra lá diêu bông đã là một câu chuyện. Hàn Mạc Tử cũng sáng tạo ra cõi phượng trì… rất mông lung thì đến Hoàng Cầm ông lại nghĩ ra là Lá diêu bông. Bài thơ “Lá diêu bông” như là tả nhưng nó không tả mà nó nói về một nỗi niềm. Ông ấy dùng bản năng ở trong mình, chỉ có thơ Hoàng Cầm ta thấy là em yêu chị thôi…”
Ngày 6/5/2010, nhà thơ Hoàng Cầm đã nhẹ bước ra đi sau chặng đường 89 năm bền bỉ tìm về. Ông tìm về nơi ông sinh ra, nơi trọn đời ông nhớ thương day dứt: “Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc/ Chiều xưa giẻ quạt voi lồng/ Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc/ Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông…” Ông tìm về “Bên kia sông Đuống”: “nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ” nơi ông đánh giặc và yêu. Tìm về với chính tuổi thơ ông: “Ta con chim cu về gù rặng tre/ đưa nắng ấu thơ về sân đất trắng/đưa mây lành những phương trời lạ/ Về tụ nóc cây rơm”. Và tìm cả những gì không có, những gì chỉ có trong giấc mơ như chiếc lá diêu bông kia.
Năm 2007, ông đã vinh dự được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Cao Linh (TTXVN)
Ý kiến ()